
Địa bàn xã Đa Mai (nay là phường Đa Mai), thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang nằm bên bờ sông Thương, có cây cầu nối quốc lộ số 1 từ biên giới Lạng Sơn dọc theo đất nước chi viện cho tiền tuyến miền Nam ruột thịt. Cầu Sông Thương (giống như cầu Hàm Rồng của tỉnh Thanh Hóa) trở thành tâm điểm đánh phá của kẻ thù, hòng cắt đứt tuyến đường vận chuyển huyết mạch này. Giặc Mỹ đã trút xuống miền quê ven sông nơi đây hàng ngàn tấn bom đạn, hàng trăm quả tên lửa nhưng không làm lung lay được ý chí của người dân nơi đây. Nhân dân nơi đây vẫn một lòng bám đất, bám làng, vừa sản xuất chi viện cho miền Nam, vừa phục vụ trung đoàn phòng không đóng quân trên địa bàn chiến đấu, bảo vệ quê hương.
Nơi đây ngày cũng như đêm các chiến sỹ phải quần nhau với địch nên áo quần rách nhiều. Nhiều chiến sỹ mình trần, quần lại rách nhưng vẫn không ngơi tay đánh giặc. Chứng kiến những cảnh tượng này, các mẹ, các chị trong Hội Phụ nữ địa phương có sáng kiến thành lập Hội mẹ chiến sỹ vá áo cho bộ đội.
Tận mắt chứng kiến những bà mẹ ngồi khâu áo cho các chiến sỹ trong đêm, nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý đã vô cùng xúc động, nhất là khi nhìn vào gương mặt các mẹ già, phần lớn đã sáu, bảy mươi tuổi mắt đã kèm nhèm mà lại phải vá áo với những ngọn đèn dầu chỉ được phép sáng như những con đom đóm để máy bay địch không phát hiện ra ánh sáng. Rồi các mẹ còn khâu vá ngay tại trận địa cho anh em bất kể ngày hay đêm để anh em có áo ấm mặc ngày đêm đánh giặc, tiêu diệt máy bay địch bảo vệ cầu sông Thương và bầu trời Hà Bắc.
Bài hát mang chất liệu dân ca quan họ, gây xúc động cho người nghe ngay từ những câu đầu: “Tấm áo ấy bấy lâu nay con thường vẫn mặc, để nhớ ngày chúng con về Hà Bắc, quần nhau với giặc, áo con rách thêm, nên các mẹ già lại phải thức thâu đêm vá áo…”
Những câu hát mang lời biết ơn vô hạn của những người con đối với người mẹ, hình bóng mẹ tảo tần, bình dị đã sinh thành và chăm sóc cho con, ở đâu mẹ cũng chia sẻ, nâng giấc cho con, lo toan cho con từ nắm cơm đến mảnh áo mẹ vá đêm đêm với cả tình thương yêu không bờ bến.
Đoạn tiếp theo của bài hát càng nói lên lòng biết ơn sâu nặng của người con đối với mẹ, tấm lòng mẹ quý hơn mọi thứ trên đời, tuy mẹ nghèo nhưng vẫn nhường cơm, xẻ áo cho các con. Đoạn bài hát đã đẩy lên cao trào của sự xúc động khắc họa nên lòng biết ơn của người con với tình thương bao la của người mẹ dành cho con, mà khi đó cả người hát và người nghe đều rưng rưng nghẹn ngào: “Tấm áo ấy bấy lâu nay con quý hơn cơm gạo, đời mẹ nghèo, trông áo rách, áo rách nên thương”.
Những câu hát khái quát hết tâm trạng của hàng triệu người con ra trận đi chiến đấu, qua nhiều chiến trường vẫn mặc theo tấm áo, mang theo cả tình thương của mẹ vào từng trận đánh. Hơi ấm của mẹ đã nâng bước quân hành cho đôi chân con không mỏi, chiến đấu và mang chiến thắng trở về, với một niềm tin sắt đá vào ngày chiến thắng kẻ thù, bừng lên sức sống mạnh mẽ như ánh sáng ban mai:“Các con ra đi đã mấy chiến trường, mang theo cả tình thương của mẹ. Lạ kỳ thay con đi như thế, bỗng khi nào chợt nhớ hậu phương, thì đường đang xa mà đôi chân nên khỏe, trái tim này rực cháy yêu thương. Mọi gian lao mẹ con ta san sẻ, nhắm chân trời rạng rỡ ánh dương”.
Kết thúc đoạn cuối bài hát này một lần nữa khẳng định niềm tự hào, sự hy sinh của người mẹ miền quê quan họ Hà Bắc nói riêng và các người mẹ của đất nước Việt Nam nói chung với tình thương yêu con, yêu nước không bờ bến. Tấm áo mẹ đã gửi gắm đường kim, mũi chỉ bên ngọn đèn dầu trong đêm hè nóng bức hay mùa đông giá lạnh. Con đã mang đi khắp mọi miền Tổ quốc, sưởi ấm lòng con khi chiến trường khốc liệt. Tấm áo của mẹ là quê hương, là nguồn động viên vô tận với người chiến sĩ trên mọi nẻo đường chiến đấu.