Quân khu 7 Online

Chính trị > Tiếp lửa truyền thống

Thứ năm, 22/05/2025, 20:03 (GMT+7)
1836 lượt xem

Chân dung tướng lĩnh Quân khu 7 (1945-2020): Thiếu tướng Mai Văn Phúc

(QK7 Online) - Đồng chí Mai Văn Phúc, sinh ngày 25-12-1927, tại xã Hòa Hải, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (nay là phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng) - một vùng quê nghèo khó nhưng giàu lòng yêu nước. Ngay từ nhỏ, đồng chí Mai Văn Phúc đã sớm được tiếp xúc với những chiến sĩ Cộng sản, đưa thư, tài liệu và được các đồng chí dạy những bài học về Việt Minh, về Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau khi giành được chính quyền trong toàn tỉnh, ngày 23-9-1945, tại thị xã Hội An, Tỉnh ủy và Ủy ban Việt Minh tỉnh tổ chức mít tinh trọng thể mừng Lễ ra mắt Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Quảng Nam. Cùng với sự thành lập của Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tại các tổng, xã, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cách mạng được củng cố. Nhân dân thành phố Đà Nẵng và huyện Hòa Vang hăng hái tham gia các phong trào cách mạng. Lúc này, đồng chí Mai Văn Phúc vừa đi ở đợ, vừa tham gia các hoạt động của Đoàn Thanh niên và dân quân du kích địa phương.

Thiếu tướng Mai Văn Phúc, nguyên 
Phó Tư lệnh Quân khu 7 (1985-1995)
Cuối năm 1946, thực dân Pháp ở Quảng Nam - Đà Nẵng liên tiếp tăng quân, vận chuyển vũ khí, tung gián điệp khắp nơi để dò la tin tức của ta, ra sức gây hấn, tìm cớ khai chiến. Trước tình hình đó, thực hiện chủ trương “vườn không nhà trống”, “tiêu thổ kháng chiến”, nhân dân đi tản cư, Đội du kích ở lại bám trụ chiến đấu, bảo vệ quê hương, đồng chí Mai Văn Phúc được chọn vào Đội du kích, tham gia Mặt trận Non Nước.
Tháng 2-1947, đồng chí nhập ngũ, biên chế về Đại đội 9, Tiểu đoàn 102, Trung đoàn 93 Quảng Nam - Đà Nẵng. Trung đoàn làm nhiệm vụ tại tuyến phòng thủ từ phía Bắc chùa Non Nước lên cầu Cẩm Lệ, cầu Đỏ, huyện Hòa Vang. Đại đội 9 (Đại đội cảm tử) gồm những thành viên ưu tú nhất của tiểu đoàn. Là một chiến sĩ trong Đại đội cảm tử, đồng chí Mai Văn Phúc đã tham gia nhiều trận đánh dù khó khăn, nguy hiểm, nhưng với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, đại đội đã làm lên những thắng lợi vang dội, gây cho địch nhiều thiệt hại. Năm 1948, Tiểu đoàn 39, Trung đoàn 803 được thành lập, Đại đội cảm tử của Trung đoàn 93 chuyển thành Đại đội 2, Tiểu đoàn 39. Tại Tiểu đoàn 39, ngày 21-4-1949, đồng chí Mai Văn Phúc được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong thời gian công tác tại Đại đội 2, đồng chí tham gia nhiều trận đánh lớn và giành những thắng lợi quan trọng, tiêu biểu là trận đánh đồn Ngũ Giáp (19-1-1950).
Đồn Ngũ Giáp nằm trong hệ thống đồn bốt bảo vệ trục giao thông chiến lược của địch từ Đà Nẵng vào Vĩnh Điện, Hội An; Vĩnh Điện - Bà Rén và Vĩnh Điện - Ái Nghĩa. Theo yêu cầu và kế hoạch của tiểu đoàn, đồng chí Mai Văn Phúc được giao dẫn một tiểu đội trinh sát (6 đồng chí) đi thị sát trận địa. Với kinh nghiệm chiến đấu của người lính trinh sát nhiều năm, đồng chí đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, báo cáo tình hình chính xác cho cấp trên lên kế hoạch tác chiến. Trận đánh diễn ra bất ngờ, chớp nhoáng, sau khi tiêu diệt hết số lính trong đồn, ta khẩn trương thu vũ khí của địch và rút lui an toàn.
Tháng 9-1953, theo chủ trương của Bộ Chính trị, Liên khu 5 có nhiệm vụ “tập trung lực lượng tiến công lên Tây nguyên”, Tiểu đoàn 39, Trung đoàn 803 được lệnh hành quân lên Kon Tum, Đắk Lắk. Do tính chất chiến lược của Tây Nguyên, Bộ Chỉ huy chiến dịch hạ quyết tâm tiêu diệt cả 3 cứ điểm: Măng Đen, Măng Bút, Kon Rẫy trong một đêm, đập tan tuyến phòng ngự Đông Bắc Kon Tum. Đồng chí Mai Văn Phúc được giao nhiệm vụ dẫn đường một hướng vượt qua cầu đánh vào thị xã Kon Tum. Sau 7 ngày vừa tiến công vừa truy kích địch, ta phá vỡ toàn bộ thế trận của địch, tiêu diệt và bắt hàng trăm tên, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng phía Bắc Kon Tum. Sau chiến dịch, Đại đội 2, Tiểu đoàn 39 được trung đoàn tặng danh hiệu “Dũng cảm đánh tốt”, đồng chí Mai Văn Phúc đảm nhiệm chức vụ Đại đội phó Đại đội trinh sát Tiểu đoàn 39, Trung đoàn 803. Sau khi đơn vị hành quân về đứng chân tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi làm nhiệm vụ huấn luyện, chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới, đồng chí được bổ nhiệm làm Đại đội trưởng Đại đội 1, Tiểu đoàn 39 huấn luyện đột phá cho Trung đoàn 803.
Ngày 7-5-1954, Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của địch bị tiêu diệt hoàn toàn, nhưng trên chiến trường Liên khu 5 địch vẫn còn Binh đoàn cơ động 42. Tháng 6-1954, Trung đoàn 803 được lệnh hành quân chiến đấu. Dưới sự chỉ huy của Đại đội trưởng Mai Văn Phúc, Đại đội 1, Tiểu đoàn 39 cùng Trung đoàn 803, phối hợp với Tiểu đoàn 375 và lực lượng đặc công của Quân khu, lực lượng địa phương đồng loạt tiến công cụm cứ điểm Màng Màng, núi Sầm, núi Hùng, núi Chóp Chài. Sau một đêm chiến đấu quyết liệt, ta tiêu diệt gần hết Tiểu đoàn ngụy 717, đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn khác, phá hủy hơn 300 xe cơ giới, đốt cháy các kho xăng dầu, đạn dược dự trữ của địch tại trung tâm thị xã.
Cuối năm 1954, đồng chí Mai Văn Phúc được điều về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn trợ chiến, Trung đoàn 93, Sư đoàn 324. Tháng 6-1955, đồng chí được cử đi học văn hóa, ngoại ngữ tại Trường Văn hóa (D126), chuẩn bị sang nước bạn đào tạo xe tăng. Tốt nghiệp khóa học, tháng 9-1956, đồng chí sang Bắc Kinh (Trung Quốc) học Trường Sĩ quan xe tăng số 1.
Mặc dù, trình độ tiếng Trung Quốc còn hạn chế, nhưng với sự nỗ lực của bản thân và được đồng đội giúp đỡ, kết thúc khóa học đồng chí đạt kết quả khá.
Ngày 2-9-1959, Trung đoàn tăng - thiết giáp 202 được thành lập, đồng chí Mai Văn Phúc đảm nhiệm chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3. Trong thời gian công tác tại Tiểu đoàn 3, đồng chí cùng Ban Chỉ huy Tiểu đoàn làm tốt nhiệm vụ đảm bảo cơ sở vật chất, ổn định đơn vị, huấn luyện chiến sĩ mới, sẵn sàng chiến đấu, tập huấn về xe tăng cho các đơn vị bạn. Đầu năm 1964, thực hiện chủ trương của Bộ Tổng Tham mưu đưa người và phương tiện vào miền Nam chiến đấu, Trung đoàn 202 cử các đồng chí Mai Văn Phúc và Lâm Kim Chung vào Bộ Chỉ huy Miền.
Cuối năm 1964, địch tăng cường lực lượng càn quét, bình định trên khắp chiến trường trọng điểm B2. Tình hình đó, đòi hỏi ta phải khẩn trương xây dựng lực lượng. Ngày 20-11-1964, Ban Cơ giới Miền được thành lập (phiên hiệu B16), đồng chí Mai Văn Phúc làm Trưởng ban. Tham gia Chiến dịch Đồng Xoài (10-5-1965 - 22-7-1965), dưới sự chỉ huy của đồng chí Mai Văn Phúc, đơn vị đã hoàn thành tốt nhiệm vụ: Sử dụng xe chiến lợi phẩm vận chuyển lương thực, thực phẩm, đạn dược từ Căn cứ Mã Đà lên chi viện cho các trung đoàn chiến đấu; chở thương binh về tuyến sau, đưa đón Thủ trưởng và cán bộ đi công tác. Trong Lễ sơ kết chiến dịch, Đại đội 40 cơ giới (gồm: Đoàn C15 và Trung đội đặc công cơ giới), được đồng chí Hoàng Cầm - Tư lệnh Chiến dịch biểu dương.
Cuối tháng 11-1965, Bộ Chỉ huy Miền quyết định thành lập Đoàn Cơ giới Miền J16 (gồm: Đoàn 711, Ban Cơ giới Miền, Đại đội cơ giới 40), đồng chí Mai Văn Phúc đảm nhiệm chức vụ Đoàn trưởng, Chính ủy Đoàn. Trong thời gian này, dưới sự chỉ huy của đồng chí Mai Văn Phúc, Đoàn Cơ giới Miền J16 cùng Sư đoàn 9, Tỉnh đội Bình Dương và một số cơ sở mật của ta cài cắm trong hàng ngũ địch, tổ chức tiến công Căn cứ Gò Đậu, giành thắng lợi. Chiến công nối tiếp chiến công, trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, đồng chí Mai Văn Phúc chỉ đạo các đại đội thuộc Đoàn J16 Cơ giới Miền, sát cánh cùng các đơn vị bạn bẻ gãy các cuộc càn “tìm diệt” của địch, tiêu biểu nhất là cuộc hành quân Gianxơn Xity vào Chiến khu Dương Minh Châu. Để phát huy lợi thế của lối đánh đặc công “lấy ít địch nhiều, luồn sâu, đánh hiểm”, tháng 4-1967, Bộ Chỉ huy Miền quyết định sáp nhập B18 Đặc công với J16 Cơ giới thành Phòng Đặc công Cơ giới (phiên hiệu J16 Đặc cơ), đồng chí Mai Văn Phúc đảm nhiệm chức vụ Chính ủy. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968, Đoàn J16 Đặc công Cơ giới, dưới sự chỉ huy của đồng chí Mai Văn Phúc liên tiếp tổ chức tập kích địch trên những địa bàn trọng yếu như: Trảng Lớn, Bà Đen, Dầu Tiếng, Cà Tum... giành những thắng lợi lớn, gây tổn thất nặng cho địch. Sang năm 1969, Đoàn J16 Đặc công Cơ giới được tăng cường lực lượng từ miền Bắc vào, Bộ Chỉ huy Miền quyết định thành lập Trung đoàn đặc công 429, do đồng chí Mai Văn Phúc làm Chính ủy Trung đoàn.
Cuối năm 1969 - đầu năm 1971, trước bối cảnh đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương, cùng với Ban Chỉ huy Trung đoàn đặc công 429, đồng chí Mai Văn Phúc đã chỉ huy những cán bộ, chiến sĩ đặc công cơ giới tham gia nhiều trận đánh lớn trên chiến trường Campuchia, hỗ trợ cho lực lượng nước bạn; góp phần tiêu diệt sinh lực địch, thu và phá hủy nhiều loại vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch. Những chiến công của Đoàn 429 trên đất bạn đã góp phần giải phóng hàng ngàn người dân Campuchia và Việt kiều bị giam giữ trong các nhà tù, trại tập trung.
Những năm từ 1971 đến 1972, chiến trường miền Nam có nhiều thay đổi, có lợi cho ta, Bộ Tư lệnh Miền gấp rút chuẩn bị Tổng tiến công chiến lược năm 1972. Một số đơn vị hỏa lực của B2 được tăng cường đội ngũ cán bộ có năng lực, nhiều kinh nghiệm trong chiến đấu. Đồng chí Mai Văn Phúc được điều về làm Phó Chính ủy, rồi Chính ủy Đoàn 75 pháo binh Miền. Từ thực tiễn chiến đấu cũng như yêu cầu về tác chiến binh chủng hợp thành trên chiến trường Đông Nam Bộ, tháng 5-1972, Bộ Tư lệnh Miền quyết định chuyển Phòng Cơ giới Miền (M26) thuộc Cục Tham mưu thành Đoàn Cơ giới trực thuộc Bộ Tư lệnh Miền (phiên hiệu Đoàn 26), đồng chí Mai Văn Phúc được bổ nhiệm làm Đoàn trưởng kiêm Chính ủy Đoàn 26. Đồng chí về nhận nhiệm vụ vào thời điểm Đoàn 26 đang gặp nhiều khó khăn, lực lượng mỏng, xe tăng, xe thiết giáp đều xuống cấp... Bằng những kinh nghiệm chiến đấu trên chiến trường nhiều năm, đồng chí lãnh đạo đơn vị khẩn trương củng cố lực lượng, tập trung huấn luyện cho cán bộ cả về xe của ta và xe của địch; chuẩn bị tốt công tác hậu cần, kỹ thuật để đón các đơn vị xe tăng từ miền Bắc vào. Sau thời gian củng cố và bổ sung lực lượng, Đoàn 26 ra quân đánh 2 trận vào Phước Bình, 3 trận vào Côngpông Tachê, tập kích Chi khu Krang Xvây; góp phần cùng quân và dân Campuchia mở rộng vùng giải phóng, 3 nước Đông Dương là một chiến trường.
Đầu năm 1974, đồng chí Mai Văn Phúc được cử ra miền Bắc học tại Học viện Quân sự Cao cấp (nay là Học viện Quốc phòng). Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh (26-4-1975 - 30-4-1975), đồng chí đảm nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng phụ trách các tiểu đoàn đặc công. Dưới sự chỉ huy của đồng chí, các đơn vị đặc công trực tiếp tham gia chiến dịch, giành thắng lợi, góp phần giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, đồng chí Mai Văn Phúc đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh xe tăng Miền.
Tháng 9-1976, đồng chí được điều về làm Cục phó Cục Kinh tế Quân khu 7. Quá trình tổ chức, sắp xếp lại lực lượng vũ trang trong cả nước, Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho Cục Quản lý xe, bảo vệ kỹ thuật xe tăng - thiết giáp, xe công trình trong toàn quân. Tháng 6-1977, đồng chí được điều về đảm nhiệm chức vụ Cục phó Cục Quản lý xe, Tổng cục Kỹ thuật (phụ trách cơ quan thường trực phía Nam). Trong thời gian đồng chí Vũ Toàn - Cục trưởng điều trị bệnh, đồng chí Mai Văn Phúc nhận quyết định ra Hà Nội đảm nhiệm Quyền Cục trưởng Cục Quản lý xe (nay là Cục Xe - Máy Tổng cục Kỹ thuật).
Năm 1979, tình hình biên giới phía Bắc ngày càng căng thẳng. Để đảm bảo kỹ thuật cho lực lượng tăng - thiết giáp làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, Tổng cục Kỹ thuật điều đồng chí Mai Văn Phúc sang làm Cục trưởng Cục Quản lý chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật (sau đổi tên là Cục Tăng - thiết giáp).
Đầu năm 1980, đồng chí Mai Văn Phúc được cử đi học quản lý kinh tế 3 tháng. Hoàn thành khóa học, đồng chí được Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ hoàn toàn mới - Tư lệnh Binh đoàn 23 (chỉ huy bộ đội làm cao su). Nhiệm vụ của Binh đoàn 23 là cùng với Công ty cao su Phú Riềng thực hiện trồng mới 50.000ha cao su; xây dựng cơ sở hạ tầng, thu hút lực lượng lao động, định hình khu công nghiệp cao su tương lai, kết hợp kinh tế với quốc phòng trên tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia. Những ngày đầu mới thành lập, Binh đoàn gặp khó khăn, thiếu thốn cả về lực lượng
và cơ sở vật chất, trang thiết bị. Nhưng với nhiệt tình và tâm huyết cho sự phát triển cây cao su, đồng chí Mai Văn Phúc cùng Bộ Chỉ huy Binh đoàn tổ chức các đơn vị khẩn trương khai hoang, ổn định doanh trại. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ làm kinh tế trồng cây cao su ở Phú Riềng, cuối năm 1983, đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ của Binh đoàn 23 trở về quân đội, đồng chí Mai Văn Phúc về làm Cục trưởng Cục Kỹ thuật Quân khu 7. Năm 1985, đồng chí được bổ nhiệm Phó Tư lệnh Quân khu 7 kiêm Cục trưởng Cục Kỹ thuật Quân khu 7. Năm 1988, đồng chí được thăng quân hàm Thiếu tướng. Những năm từ 1990 đến 1995, đồng chí đảm nhiệm chức vụ Phó Tư lệnh Quân khu 7 phụ trách kinh tế và đối ngoại.
Năm 1997, đồng chí được nghỉ hưu theo chế độ. Sau khi nghỉ hưu, đồng chí tham gia nhiều hoạt động từ thiện, ủng hộ các nạn nhân chất độc da cam/dioxin, nhiệt tình hăng hái tham gia công tác của Đảng, đoàn thể tại địa phương: Vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, cùng một số đồng chí về lại chiến trường xưa tìm phần mộ, hài cốt những đồng đội đã hy sinh.
Từ một người nông dân, 18 tuổi không biết chữ, đi theo Đảng, Bác Hồ; hơn 50 năm trong quân ngũ, rèn luyện, chiến đấu, đồng chí Mai Văn Phúc đã trở thành một người Cộng sản chân chính, một cán bộ lão thành cách mạng đầy nhiệt huyết. Tên tuổi của đồng chí gắn liền với những đơn vị mà quân thù nghe tên phải khiếp sợ, đồng đội nhắc đến đều tự hào.
Trong thời chiến cũng như thời bình, bằng lòng nhiệt thành và tính kỷ luật của “Bộ đội Cụ Hồ”, mọi nhiệm vụ Đảng, Nhà nước và Quân đội giao, đồng chí luôn hoàn thành tốt, được đồng đội và cấp dưới tin yêu, kính trọng. Với rất nhiều chiến công oanh liệt và những đóng góp cho sự phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam cả trong kháng chiến cũng như sau khi đất nước hòa bình, đồng chí Mai Văn Phúc được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Độc lập hạng Nhì; 2 Huân chương Quân công hạng Nhì; 2 Huân chương Chiến công hạng Nhì; 3 Huy chương Quân kỳ quyết thắng; Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất; 3 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba; ba lần đạt danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”; 3 Huy chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba; 3 Huy chương Giải phóng miền Nam hạng Nhất, Nhì, Ba; Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng…
Hà Vi
Trích sách Chân dung tướng lĩnh Quân khu 7 (1945-2020), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, năm 2021.

Bình luận

Bài viết tương tự:

Tuổi trẻ Sư đoàn 5 hướng về Ngày truyền thống LLVT Quân khu 7

Tuổi trẻ Sư đoàn 5 hướng về Ngày truyền thống LLVT Quân khu 7

15:13 08/12/2025

(QK7 Online) - Những ngày này, không khí rộn ràng kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập LLVT Quân khu 7 (10/12/1945-10/12/2025) lan toả khắp các cơ quan, đơn vị thuộc Sư đoàn 5. Sắc cờ hoa rực rỡ, những con đường được trang hoàng không chỉ tạo niềm phấn khởi, mà còn khơi dậy niềm tự hào và xúc động trong lòng mỗi cán bộ, chiến sĩ, đặc biệt là thế hệ trẻ.

Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 gặp mặt cán bộ cao cấp nhân kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống LLVT Quân khu

Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 gặp mặt cán bộ cao cấp nhân kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống LLVT Quân khu

19:34 04/12/2025

(QK7 Online) - Ngày 4/12, trong không khí phấn khởi hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống LLVT Quân khu 7 (10/12/1945 – 10/12/2025) và đón nhận danh hiệu Anh hùng LLVT Nhân dân, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 long trọng tổ chức gặp mặt cán bộ cao cấp qua các thời kỳ. Thiếu tướng Lê Xuân Thế, Tư lệnh Quân khu chủ trì buổi gặp mặt.

Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 viếng Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Đồng Nai

Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 viếng Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Đồng Nai

11:56 02/12/2025

(QK7 Online) – Sáng 2 tháng 12, Thiếu tướng Lê Xuân Thế, Phó Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Quân khu 7 làm trưởng đoàn cùng đoàn công tác Quân khu đến dâng hoa, dâng hương, viếng Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh Đồng Nai, Nghĩa trang liệt sĩ Vĩnh Cửu, Đền thờ liệt sĩ miền Đông Nam bộ nhân kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống lực lượng vũ trang Quân khu 7 (10/12/1945 – 10/12/ 2025).

TIN XEM NHIỀU:

TIN MỚI:

DƯ LUẬN QUAN TÂM:

Quân khu 7 Online

Theo dõi chúng tôi tại:

Cơ quan chủ quản: Bộ Tư lệnh Quân khu 7

Giấy phép số 486/GP-BTTTT ngày 28/07/2021

© Báo Quân khu 7 điện tử giữ bản quyền nội dung trên website này.

Tòa soạn: 17/12 Hồ Văn Huê, phường Đức Nhuận, TP. Hồ Chí Minh

Tổng Biên tập: Đại tá Nguyễn Văn Bắc

Phó Tổng Biên tập: Thượng tá Lại Thế Hiền

Email: [email protected] | [email protected] | 1